top of page

Kết quả học tập

Các thử nghiệm lâm sàng

THÍCH ỨNG-2

2017-2018

403 người tham gia (59 CSUH)

ADAPT-2 là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng của Mạng lưới thử nghiệm lâm sàng NIDA nhằm xác định hiệu quả của bupropion cộng với naltrexone phóng thích kéo dài trong điều trị rối loạn sử dụng methamphetamine mà CSUH đóng vai trò là địa điểm. Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên để nhận bupropion liều cao hàng ngày, với sự tuân thủ được khuyến khích và theo dõi bằng video, cộng với naltrexone phóng thích kéo dài cứ sau 3 tuần hoặc giả dược. Nghiên cứu có một thành phần thích ứng, trong đó một số người tham gia nhóm giả dược được chuyển sang điều trị tích cực trong nửa thời gian thử nghiệm. Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên vào điều trị tích cực có nhiều khả năng có 3 trong số 4 mẫu nước tiểu cuối cùng âm tính với methamphetamine.

tạm biệt-C

2015-2017

31 người tham gia

Bye-C là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng so sánh phương pháp điều trị được quan sát trực tiếp đã được sửa đổi (mDOT) với liều lượng không được quan sát để điều trị nhiễm viêm gan C mãn tính ở những người chủ động tiêm chích ma túy với người khác (để tối đa hóa khả năng giảm lây truyền thứ cấp). Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên vào mDOT hoặc dùng liều ledipasvir-sofosbuvir (Harvoni) hàng ngày không được quan sát trong 8 tuần. Tái nhiễm được đo ở các lần tái khám sau 12 và 36 tuần. 90% bệnh nhân có đáp ứng virus bền vững sau 12 tuần mà không có sự khác biệt giữa các nhóm, cho thấy rằng cả hai phương pháp dùng thuốc đều có thể có hiệu quả trong việc đạt được điều trị thành công.

M2.0

2013-2017

120 người tham gia

M2.0 là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nhằm xác định hiệu quả của mirtazapine trong điều trị rối loạn sử dụng methamphetamine và giảm hành vi nguy cơ nhiễm HIV ở nhóm MSM và người chuyển giới nữ. Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên để nhận liều mirtazapine hoặc giả dược hàng ngày trong 6 tháng. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy mirtazapine làm giảm việc sử dụng methamphetamine và một số hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV ở nhóm MSM và người chuyển giới nữ, đồng thời mang lại lợi ích kéo dài sau điều trị. Mirtazapine là thuốc đầu tiên chứng minh hiệu quả trong điều trị rối loạn sử dụng methamphetamine trong hai thử nghiệm ngẫu nhiên độc lập.

KHỞI ĐỘNG LẠI

2014-2016

63 người tham gia

REBOOT là một thử nghiệm thí điểm, ngẫu nhiên có đối chứng nhằm đánh giá hiệu quả của việc tư vấn dựa trên phỏng vấn tạo động lực trong việc giảm thiểu các trường hợp quá liều ở những người sử dụng opioid. Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên để nhận được tư vấn hoặc “điều trị như bình thường” (ví dụ: giới thiệu) và được tái khám 4 tháng một lần trong 16 tháng. Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy những người tham gia được can thiệp tư vấn có ít trường hợp quá liều hơn đáng kể trong suốt quá trình nghiên cứu so với những người trong nhóm đối chứng. Một nghiên cứu tiếp theo, REBOOT 2.0, đang được tích cực đăng ký tại San Francisco và Boston.

TREX

2012-2015

100 người tham gia

TREX là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nhằm đánh giá hiệu quả của naltrexone phóng thích kéo dài trong việc giảm sử dụng methamphetamine và các hành vi nguy cơ tình dục ở một nhóm MSM phụ thuộc methamphetamine. Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên để nhận naltrexone hoặc giả dược phóng thích kéo dài. Kết quả từ nghiên cứu này chỉ ra rằng naltrexone phóng thích kéo dài có thể không làm giảm việc sử dụng methamphetamine hoặc các hành vi nguy cơ tình dục ở người MSM phụ thuộc methamphetamine so với giả dược.

Dự án iN

2013-2014

30 người tham gia

Dự án iN là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nhằm đánh giá khả năng chấp nhận và dung nạp của việc sử dụng naltrexone có mục tiêu nhằm giảm việc sử dụng methamphetamine ở những MSM nghiện rượu, sử dụng methamphetamine không phụ thuộc và có nguy cơ nhiễm HIV cao. Kết quả từ Dự án iN cho thấy naltrexone có liên quan đến việc giảm đáng kể nguy cơ tình dục; và đối với một số cá nhân, naltrexone có liên quan đến việc giảm sử dụng ma túy đá và uống rượu say.

NIP

2013-2014

11 người tham gia

NIP là một nghiên cứu thí điểm nhằm đánh giá tính khả thi, hiệu quả và khả năng chấp nhận của việc sử dụng naltrexone phóng thích kéo dài (XRNTX) như một phương pháp điều trị độc lập cho chứng rối loạn sử dụng rượu nghiêm trọng. 88% người tham gia báo cáo rằng XRNTX đã giúp họ giảm uống rượu. Mặc dù nghiên cứu chỉ giới hạn ở cỡ mẫu nhỏ, nhưng kết quả cho thấy mức giảm khiêm tốn về điểm số Yêu cầu uống nước và chi phí dịch vụ y tế khẩn cấp được sử dụng cho những bệnh nhân sử dụng XRNTX.

Dự án ECHO

2010-2012

326 người tham gia

Dự án ECHO là một nghiên cứu hành vi nhằm đánh giá hiệu quả của việc điều chỉnh Tư vấn nhận thức cá nhân hóa (PCC) nhằm giải quyết những lý do tự biện minh cho quan hệ tình dục có nguy cơ cao ở những người MSM âm tính với HIV, sử dụng chất gây nghiện. Kết quả từ nghiên cứu này không tìm thấy bằng chứng cho thấy PCC làm giảm các hành vi nguy cơ tình dục nói chung nhưng đã quan sát thấy sự giảm đáng kể các trường hợp giao hợp qua đường hậu môn không được bảo vệ ở những người MSM không sử dụng chất gây nghiện. Dựa trên kết quả nghiên cứu, CDC đã tiến hành cập nhật sổ tay hướng dẫn PCC để đưa vào phần thảo luận về việc sử dụng chất gây nghiện và PrEP trong phiên họp PCC.

Aripiprazol

2009-2012

90 người tham gia

Aripiprazole là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nhằm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng aripiprazole nhằm giảm việc sử dụng methamphetamine ở những người tích cực sử dụng methamphetamine. Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên để nhận aripiprazole hoặc giả dược trong 12 tuần đồng thời với tư vấn hàng tuần. Kết quả không tìm thấy sự khác biệt đáng kể trong việc giảm sử dụng methamphetamine ở cả hai nhóm nghiên cứu.

M1.0

2007-2010

60 người tham gia

M1 là một thử nghiệm thí điểm, ngẫu nhiên có đối chứng nhằm đánh giá hiệu quả của việc sử dụng mirtazapine hàng ngày nhằm giảm việc sử dụng methamphetamine trong nhóm MSM. Những người tham gia được chọn ngẫu nhiên để nhận liều mirtazapine hoặc giả dược hàng ngày trong 12 tuần đồng thời với tư vấn hàng tuần. Kết quả cho thấy việc sử dụng methamphetamine giảm ở những người tham gia dùng mirtazapine hàng ngày so với giả dược.

Bupropion

2006-2007

30 người tham gia

Bupropion là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nhằm đánh giá tính khả thi của việc đăng ký và duy trì MSM phụ thuộc methamphetamine trong một thử nghiệm can thiệp bằng thuốc. Ba mươi MSM có hoạt động tình dục, phụ thuộc vào meth được chọn ngẫu nhiên để nhận bupropion hoặc giả dược hàng ngày trong 12 tuần. Tỷ lệ tham gia nghiên cứu và tỷ lệ duy trì cao—lần lượt là 90% và 81%—cho thấy rằng việc ghi danh và giữ lại nhóm đối tượng này vào một thử nghiệm dược lý là khả thi. Tuân thủ điều trị bằng thuốc ở mức vừa phải (60%), cho thấy cần cải thiện hỗ trợ tuân thủ điều trị để đánh giá hiệu quả của bupropion đối với sự phụ thuộc vào methamphetamine ở MSM.

ĐỐI VỚI

2016 -2021

300 người tham gia

COPING là một nghiên cứu đoàn hệ tương lai trên 300 bệnh nhân được điều trị bằng opioid lâu dài để điều trị chứng đau mãn tính, không phải do ung thư. COPING đã xác định các yếu tố dự báo mức độ hài lòng với việc kiểm soát cơn đau, vai trò đặc biệt của việc sử dụng chất kích thích trong việc tự điều trị cơn đau, vai trò của chủng tộc bệnh nhân trong việc dự đoán các quyết định quản lý thuốc opioid và tác động của việc ngừng điều trị bằng thuốc opioid đối với các chỉ số chất lượng chăm sóc.

Nghiên cứu ngừng sử dụng opioid (ODS)

2012 -2019

600 người tham gia

ODS là một nghiên cứu đánh giá biểu đồ trên 300 bệnh nhân nhiễm HIV và 300 bệnh nhân phù hợp về mặt nhân khẩu học không nhiễm HIV đã được điều trị bằng opioid ít nhất 3 tháng liên tục để điều trị chứng đau mãn tính. Các phân tích ODS đã ghi nhận những tác động tiêu cực đến việc tham gia chăm sóc HIV khi ngừng điều trị bằng opioid. Ngoài ra, ODS nhận thấy rằng, trong khi xét nghiệm dương tính với chất kích thích không liên quan đến chăm sóc y tế khẩn cấp liên quan đến opioid, những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính với chất kích thích vẫn có nhiều khả năng bị ngừng điều trị bằng opioid hơn.

CHUYỂN TIẾP

2012-2018

602 người tham gia

TRANSITIONS là một nghiên cứu thuần tập hồi cứu trên các bệnh nhân được chăm sóc sức khỏe ban đầu được bảo hiểm công ở San Francisco, những người đã được kê đơn thuốc opioid để giảm đau mãn tính không phải do ung thư trong ít nhất 3 tháng liên tiếp. Kết quả cho thấy sự gia tăng tần suất sử dụng heroin và thuốc giảm đau opioid không kê đơn ở những người tham gia đã ngừng sử dụng opioid được kê đơn so với những người tham gia không dùng thuốc opioid được kê đơn. Ngoài ra, những người tham gia được tăng liều thuốc giảm đau opioid có nhiều khả năng sử dụng heroin thường xuyên hơn.

HẠT GIỐNG

2015-2017

252 người tham gia

SEEDS là một nghiên cứu lấy mẫu dựa trên người trả lời để kiểm tra mô hình sử dụng rượu nặng ở MSM và phân tích mối tương quan giữa việc tiêu thụ rượu có hại và uống rượu say. Kết quả cho thấy mô hình sử dụng rượu nặng là phổ biến và có liên quan độc lập với số lượng bạn tình nam nhiều hơn và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Hơn nữa, sự chênh lệch đáng kể về chủng tộc/dân tộc và kinh tế xã hội liên quan đến việc sử dụng rượu nặng đã được quan sát thấy và chủng tộc/sắc tộc đã làm thay đổi tác động của các yếu tố rủi ro liên quan đến những kết quả này.

MŨI

2013-2016

1.985 người tham gia

NOSE là một nghiên cứu khoa học thực hiện nhằm đánh giá tính khả thi và khả năng chấp nhận của việc kê đơn đồng thời naloxone cho những bệnh nhân đang dùng opioid để điều trị cơn đau mãn tính không phải do ung thư. Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy những bệnh nhân được kê đơn naloxone có số lần đến khoa cấp cứu liên quan đến opioid ít hơn 47% trong 6 tháng sau khi nhận được đơn thuốc và số lượt khám sau 1 năm ít hơn 63% so với những bệnh nhân không dùng naloxone.

QUẢNG CÁO

2015

40 người tham gia

ADIOS là một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng thí điểm nhằm đánh giá tính khả thi và khả năng chấp nhận của việc sử dụng chi tiết học thuật như một biện pháp can thiệp giáo dục nhằm tăng cường kê đơn naloxone cho các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu ở San Francisco. Nghiên cứu cho thấy rằng những nhà cung cấp nhận được thông tin học thuật chi tiết có mức kê đơn naloxone tăng lên đáng kể so với những nhà cung cấp không nhận được sự can thiệp.

LERNT

2014

114 người tham gia

LERNT là một nghiên cứu can thiệp nhằm xác định liệu một khóa đào tạo ngắn hạn có đủ để giáo dục người nhận naloxone về nhận biết, quản lý và sử dụng quá liều hay không. Những người nhận naxolone lần đầu và những người nhận lại thuốc được cung cấp một nền giáo dục tiêu chuẩn kéo dài 5-10 phút tại bốn địa điểm Giáo dục và Phòng ngừa Quá liều Ma túy ở San Francisco. Kết quả chỉ ra rằng sự thoải mái khi nhận biết, phản ứng và sử dụng naloxone trong trường hợp quá liều đã tăng lên đáng kể sau khi được giáo dục ngắn gọn ở những người dùng lần đầu. Ngoài ra, cả người dùng lần đầu và người tiếp nhận lại đều thể hiện trình độ hiểu biết cao về nhận biết và phản ứng quá liều opioid, cho thấy rằng giáo dục ngắn gọn là đủ để cải thiện sự thoải mái và cơ sở trong việc nhận biết và quản lý quá liều.

Thử nghiệm phi lâm sàng

bottom of page